Tư vấn Dịch vụ 0984.485.266
Tài khoản
alt

Không có sản phẩm nào trong giỏ hàng của bạn

Lịch Sử Hình thành BIM


Sự Khởi Đầu

Các nền tảng của khái niệm hệ thống BIM được hình thành từ những ngày đầu tiên của máy tính. Đầu năm 1962, Douglas C. Englebart đã có một tầm nhìn lạ lùng về kiến trúc sư tương lai trong bài báo của ông về Augmenting Human Intellect.



"the architect next begins to enter a series of specifications and data--a six-inch slab floor, twelve-inch concrete walls eight feet high within the excavation, and so on. When he has finished, the revised scene appears on the screen. A structure is taking shape. He examines it, adjusts it... These lists grow into an evermore-detailed, interlinked structure, which represents the maturing thought behind the actual design."
Tạm dịch “ Các kiến trúc sư thế hệ tiếp theo sẽ bắt đầu nhập vào một loạt các thông số kỹ thuật và dữ liệu- một sàn gỗ xẻ 6 inch, những bức tường bê tông cao 12 inch, và sâu 8 Feet. Khi kết thúc, cảnh đã sửa đổi sẽ xuất hiện trên màn hình. Một cấu trúc đã thành hình. Ông kiểm tra nó, điều chỉnh nó…những danh sách này được phát triển thành một cấu trúc luôn có chi tiết, liên kết với nhau, đại diện danh nghĩa cho một thiết kế thực tế.”
Englebart đề xuất thiết kế dựa trên đối tượng, thao tác tham số và các cơ sở dữ liệu, những giấc mơ đã trở thành sự thực một vài năm sau đó. Có một danh sách dài các nhà nghiên cứu thiết kế có ảnh hưởng đáng kể bao gồm Herbert Simon, Nicholas NegroponteIan McHarg : người đã phát triển một hệ thống song song là Geographic Information Systems (GIS)- hệ thống thông tin địa lý. Công việc của Christopher Alexander chắc chắn sẽ có tác động đáng kể đến các nhà khoa học lập trình hướng đối tượng. Các conceptual frameworks không thể được nhận ra nếu không có một giao diện đồ họa tương tác với mô hình xây dựng.
Sau đó vào năm 1986, Robert Aish lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Building Modelling” trong một bài báo. Trong bài này, ông đã tranh luận về những gì chúng ta biết bây giờ là BIM và công nghệ để thực hiện chúng.

Một vài năm sau đó, việc sử dụng thuật ngữ “Building Information Model” xuất hiện trong một bài báo của G.A. Van NederveenF. Tolman vào tháng 12 năm 1992 viết về tự động hóa trong xây dựng.

Visualizing the Model

Từ giao diện đồ họa SAGE gốc và chương trình Sketchpad của Ivan Sutherland năm 1963. Các chương trình mô hình hóa đã bắt đầu phát triển dựa trên các mô hình toán học. Có 2 phương pháp chính để hiển thị và ghi lại thông tin hình dạng xuất hiện năm 1970 và 1980 là cấu trúc thể rắn (CSG)- Constructive Solid GeometryBoundary Representation (brep).

Kết quả hình ảnh cho Boundary Representation
Kết quả hình ảnh cho Constructive Solid Geometry
Hệ thống CSG sử dụng một loạt các hình dạng nguyên thủy có thể là chất rắn hoặc lỗ rỗng, để các hình dạng này có thể kết hợp hoặc cắt nhau để tạo ra các hình dạng phức tạp hơn. Sự phát triển này đặc biệt quan trọng trong việc mô tả kiến trúc cho các bộ phần như cửa đi và cửa sổ.
Sự phát triển của nét bút, những màn trình bày đầu tiên và các sự kiện khác nhau trong những ngày đầu tiên con người tương tác với máy tính cũng được ghi nhận ở các nơi khác. Một lịch sử về quá trình hình thành kiến trúc với máy tính cũng có thể tìm thấy trong một cuốn sách của Nicholas DeMonchaux: Spacesuit: Fashioning Apollo. Cuốn sách này có một tương thuật về tiền thân của công nghệ BIM và CAD khi chúng được lồng vào cuộc đua không gian và chiến tranh lạnh.

Database Building Design

 

Nhìn thấy tòa nhà thông qua ống kính của cơ sở dữ liệu đã góp phần định hình kiến trúc với các thành phần cấu thành của nó, đòi hỏi một hệ thống phân loại của các bộ phận cấu thành của tòa nhà. Một trong những dự án đầu tiên thành công khi tạo ra một cơ sở dữ liệu xây dựng là BDS (Building Description System) là phần mềm đầu tiên mô tả từng phần tử thư viện có thể được lấy ra và bổ sung vào mô hình. Phần mềm này sử dụng một giao diện đồ họa, phối cảnh và orthographic và một cơ sở dữ liệu có thể sắp xếp cho phép người dùng có thể lấy các thông tin về thuộc tính, vật liệu và nhà sản xuất. Dự án được tạo thành bởi Charles Eastman, một kiến trúc sư được đào tạo tại Berkeley và tiếp tục làm việc trong khoa học máy tính tại Carnegie Melon Uniersity. Eastman tiếp tục làm việc về khoa học máy tính và công nghệ BIM tại trường kiến trúc công nghệ Georgia nhiều hơn là làm việc ở phòng nghiên cứu kiến trúc.
Trong khi các khái niệm và phần mềm BIM phát triển nhanh chóng ở MỹAnh, Tại Hungary, một lập trình viên và cũng là một người buôn lậu máy tính Apple đã phát triển một phần mềm mà sau này đã thay đổi cả lịch sử của cả khái niệm BIM và thị trường BIM. Năm 1982, Gábor Bojár đã bắt đầu phát triển Archicad, ông đã cầm đồ cả nữ trang của vợ để buôn máy tính Apple. Với công nghệ tương tự như BDS, Bojár phát hành Graphisoft’s Radar CH cho Apple Lisa OS năm 1984. Và sau đó đổi tên là Archicad vào năm 1987, và Archicad trở thành phần mềm BIM đầu tiên cho máy tính cá nhân. Ngay sau đó thì Tekla cũng đã hoàn thành phiên bản BIM đầu tiên của mình.

Trở lại năm 1985, ở Mỹ, Diehl Graphsoft đã phát triển Vectorworks, một phần mềm CAD đầu tiên, một phần mềm 3D đầu tiên và một phiên bản nền tảng đầu tiên cho CAD. Vectorwork là người đầu tiên giới thiệu các tính năng BIM. Cùng thời điểm, Parametric Technology Corporation (PTC) được thành lập năm 1985 đã phát hành Pro/ENGINEER năm 1988, được coi là phần mềm mô hình thiết kế đầu tiên được đưa vào thị trường BIM. Chia tách từ từ PTC, Irwin Jungreis Leonid Raiz thành lập công ty phần mềm riêng của họ là Charles River Software. Cả hai phát triển một phiên bản kiến trúc của phần mềm Pro / ENGINEER để có thể xử lý nhiều dữ liệu phức tạp hơn Archicad. Vào năm 2000, họ đã tạo ra Revit, nó được gọi như vậy là vì tốc độ ra mắt phiên bản của nó. Revit đã thêm vào BIM một khái niệm về tham số thay đổi thông qua lập trình hướng đối tượng một cách trực quan.
Một điều quan trọng cần lưu ý trong lịch sử BIM là sự phát triển của Building Design Advisor tại phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley năm 1993. Đây là một phần mềm mô phỏng và các giải pháp đề xuất dựa trên mô hình. Tại Úc, Mapsoft được thành lập năm 1994 và thiết kế phần mềm CAD khảo sát với giá rẻ. mở đường cho Minicad, phần mềm CAD đầu tiên chạy trên máy tính cầm tay HP100LX.

Văn hóa hợp tác

Kiến trúc, kỹ thuật và xây dựng hiện đại đang phát triển theo hướng hợp tác. Trong hàng thập kỷ, các tập tin kiến trúc được tích hợp với các hệ thống của các kỹ sư. Văn hóa hợp tác này đã tác động đến cách phân phối dự án phức tạp hơn, nơi con người làm việc trên một mô hình BIM có thể truy cập được nằm trên một Server.
Năm 1995, định dạng tệp tin IFC của Foundation Foundation (International Foundation Class) được phát triển cho phép dữ liệu làm việc xuyên suốt các nền tảng. về cơ bản là tạo ra một tập tin tương thích với các chương trình BIM khác nhau. Năm 1997, Archicad phát hành giải pháp trao đổi tập tin đầu tiên dựa trên Teamwork. Sự hợp tác này cho phép nhiều kiến trúc sư cùng làm việc đồng thời trên một mô hình.
Các bản cập nhật về sau cho phép làm việc với nhau thông qua mạng internet, và cho phép điều phối dự án ở quy mô lớn hơn. Năm 1999, Onuma tại Nhật Bản cho phép các nhóm ảo làm việc trên BIM qua internet, và tạo ra một hệ thống dữ liệu BIM dựa trên cơ sở dữ liệu, mở đường cho việc tích hợp nền tảng chéo giữa các phần mềm và công nghệ tham số BIM. Năm 2001, Naviswork đã phát triển và tiếp thị JetStream, một phần mềm xem xét lại các thiết kế 3D, cộng tác và điều phối dự án. JetStream cơ bản phối hợp các dữ liệu với các định dạng khác nhau và cho phép xây dựng mô phỏng và phát hiện vấn đề. Khi Revit đưa ra bản cập nhật (Revit 6) vào năm 2004, đây là bước khởi đầu cho đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư hợp tác trong một mô hình phần mềm tích hợp. Khi Autodesk chạy đua vào BIM, họ mua lại Revit vào năm 2002, Naviswork vào năm 2007 và các hệ thống BIM nhỏ hơn nữa. Vào cuối năm 2012, Autodesk phát triển Formit. Formit là một ứng dụng cho phép tạo ra một mô hình BIM trên thiết bị di động.
Và cũng phải kể đến Năm 2003, Bentley Systems đã phát triển Generative Components (Generative Components - GC), một nền tảng BIM tập trung vào tính linh hoạt tham số và hình học điêu khắc, hỗ trợ các bề mặt NURBS (không đồng nhất B-spline). Năm 2006, Gehry Technologies đã cho ra mắt dự án số, một chương trình tương tự như GC. Cả Digital ProjectGC đã tạo ra một cuộc cách mạng trong thiết kế kiến trúc. Hai nền tảng này mang tính cách mạng, vì chúng có thể tạo ra các dạng kiến trúc phức tạp, mở đường cho tham số.
Nhưng tại sao chúng ta dùng Archicad?
Bởi vì đây là một phần mềm đã trưởng thành, có đủ bề dày trong lịch sử phát triển để phù hợp với tất cả các yêu cầu của chúng ta trong một quy trình BIM hoàn hảo.

Nguồn trích dẫn:

+Augmenting Human Intellect: A Conceptual Framework By Douglas C. Engelbart October 1962. https://www.dougengelbart.org/pubs/augment-3906.htmlDesign Computing: An Overview of an Emergent Field by Brian R. Johnson
+BIM Handbook: A Guide to Building Information Modeling for Owners, Managers ... by Charles M. Eastman
+Computational Design Modeling: Proceedings of the Design Modeling Symposium ... được biên tập bởi Christoph Gengnagel,A. Kilian,Norbert Palz,Fabian Scheurer
+ Spacesuit: Fashioning Apollo (MIT Press) by Nicholas de Monchaux
+ An Outline of the Building Description System by Charles Eastman, David Fisher,Gilles Lafue, Joseph Lividini,Douglas Stoker, Christos Yessios https://files.eric.ed.gov/fulltext/ED113833.pdf
+Building Design Advisor http://gaia.lbl.gov/BDA/